Một trong những bệnh viện nổi tiếng nhất trên thế giới
đã thay đổi quan điểm của mình về bệnh ung thư.
Thân gởi quý bằng hữu, tôi nghĩ các bạn nên bỏ ra vài phút để đọc ài này, có thể lúc nào đó ta cần đến nó cho chính mình, bạn bè hoặc người thân, Đa tạ. Nhuận Huỳnh.
Tôi có một người bạn, anh ta mắc chứng bịnh ung thư cuống phổi, cục bứu ác tính to bằng cái chén nằm ở cuống phổi. Bác sĩ nói về nhà ăn uống chờ chết, không thể cắt bỏ vì nó nằm sát với động mạch chủ. Tôi đến chơi hỏi thăm, anh ta cho tôi xem hình chụp X-Ray của cục bứu.
Anh ta đã chữa trị bệnh ung thư bằng phương pháp dưới đây: Không ăn đường, không ăn thịt, cá, cơm, chỉ uống nước xay bằng rau, củ như củ cà rốt, của cải, củ dền, cam, táo ...
Sau ba tháng uống liên tục cục bứu to bằng cái chén thu nhỏ lại chỉ còn bằng cái khu chén, sau chín tháng bứu ung thư biến mất. Bây giờ anh ta khoẻ mạnh làm việc và ăn uống bình thường. Bốn người cùng chứng bệnh ung thư như anh ta chữa bằng phương pháp chemical therapy đã chết hết rồi.
Những chi tiết của bài viết dưới đây rất đúng, tế bào ung thư khi đã không được nuôi dưỡng bằng thịt bò, đường.. thì nó sẽ chết. Nên phổ biến tài liệu này cho mọi người cùng biết.
Thân mến
Một tài liệu nói về bịnh Ung thư của
Bệnh viện Johns Hopkins, trường đại học Baltimore, Maryland ở Hoa Kỳ.
bài viết rất ngắn,
có nhiều điểm rất thú vị,
quí vị đọc thử coi thấy sao?
- Xuân Phong dịch từ bản tiếng Pháp
- Tài liệu thảo luận của CFQ (Cercle Francophone à Quinhon) ngày 21/3/2013
- Tài liệu này có giá trị nên đọc đi đọc lại.
Một trong những bệnh viện nổi tiếng nhất trên thế giới thay đổi quan điểm của mình về bệnh ung thư. Bệnh viện Johns Hopkins là một bệnh viện trường đại học nằm ở Baltimore, Maryland ở Hoa Kỳ.
Được thành lập nhờ tài trợ từ John Hopkins, ngày hôm nay nó là một trong những bệnh viện nổi tiếng nhất trên thế giới và năm thứ 17 liên tiếp được phân loại ở vị trí đầu tiên trong bảng xếp hạng của các bệnh viện tốt nhất tại Hoa Kỳ.
Sau nhiều năm nói với mọi người hóa trị liệu là cách duy nhất để điều trị và loại bỏ ung thư, Bệnh viện Johns Hopkins đã bắt đầu nói với mọi người rằng có những lựa chọn thay thế khác với hóa trị liệu: một cách hiệu quả để chống lại ung thư là không nuôi các tế bào ung thư với các chất dinh dưỡng cần thiết cho nó để nó không phát triển được.
THỨC ĂN CỦA TẾ BÀO UNG THƯ
A/- ĐƯỜNG là một loại thực phẩm của bệnh ung thư. Không tiêu thụ đường là cắt bỏ một trong những nguồn quan trọng nhất của các tế bào ung thư. Có sản phẩm thay thế đường như saccharin, nhưng chúng được làm từ Aspartame và rất có hại. Tốt hơn nên thay thế đường bằng mật ong Manuka hay mật đường nhưng với số lượng nhỏ. Muối có chứa một hóa chất phụ gia để xuất hiện màu trắng. Một lựa chọn tốt hơn cho muối trắng là muối biển hoặc các loại muối thực vật.
B/- SỮA làm cho cơ thể sản xuất chất nhầy, đặc biệt là trong đường ruột. Tế bào ung thư ăn chất nhầy. Loại bỏ sữa và thay thế bằng sữa đậu nành, các tế bào ung thư không có gì để ăn, vì vậy nó sẽ chết.
C/- Các tế bào ung thư trưởng thành trong môi trường axit. Một chế độ ăn uống là THịT Đỏ có tính axit, tốt nhất là ăn cá, và một chút thịt gà thay vì thịt bò hay thịt heo. Hơn nữa, thịt chứa kháng sinh, hormon và ký sinh trùng, rất có hại, đặc biệt đối với những người mắc bệnh ung thư. Protein thịt khó tiêu hóa và đòi hỏi nhiều enzym. Thịt không tiêu hóa ở lại và hư hỏng trong cơ thể dẫn tới tạo ra các độc tố nhiều hơn.
GÓP PHẦN GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
a) Một chế độ ăn uống gồm 80% rau quả tươi và nước ép, ngũ cốc, hạt, các loại hạt quả, quả hạnh nhân và một ít loại trái cây đặt cơ thể trong môi trường kiềm. Chúng ta chỉ nên tiêu thụ 20% thực phẩm nấu chín, bao gồm cả đậu. Nước ép rau tươi cung cấp cho cơ thể co-enzyme có thể dễ dàng hấp thu và ngấm vào các tế bào 15 phút sau khi được tiêu thụ để nuôi dưỡng và giúp định hình các tế bào khỏe mạnh. Để có được các enzyme sống, giúp xây dựng các tế bào khỏe mạnh, chúng ta phải cố gắng uống nước ép rau (tất cả, bao gồm cỏ linh thảo) và ăn nhiều rau quả tươi 2 hoặc 3 lần mỗi ngày.
b) Không nên dùng CÀ PHÊ, TRÀ và SÔ CÔ LA có chứa nhiều caffeine. TRÀ XANH là một lựa chọn tốt hơn vì có chất chống ung thư. Tốt nhất là uống nước tinh khiết hoặc nước lọc để tránh các chất độc và kim loại nặng trong nước thường. Không uống nước cất vì nước này có chứa axit.
c) Các thành các tế bào ung thư được bao phủ bởi một loại protein rất cứng. Khi không ăn thịt, những thành tế bào phóng thích nhiều enzim hơn, tấn công các pro tê in của các tế bào ung thư và cho phép hệ thống miễn dịch tiêu diệt các tế bào ung thư.
d) Một số chất bổ sung giúp xây dựng lại hệ thống miễn dịch: Floressence, Essiac, chất chống oxy hóa, vitamin, khoáng chất, EPA, dầu cá … giúp các tế bào để chiến đấu và tiêu diệt các tế bào ung thư. Các chất bổ sung khác như vitamin E được biết đến bởi vì nó gây ra apoptose, cách bình thường của cơ thể để loại bỏ các tế bào vô dụng hoặc bị lỗi.
e) Ung thư là một căn bệnh của cơ thể, tâm trí và tinh thần. Một thái độ hoạt động và tích cực hơn sẽ giúp các bệnh nhân ung thư chiến đấu và sống còn. "Giận dữ và không hiểu biết, không tha thứ sẽ đặt cơ thể vào tình trạng căng thẳng và một môi trường axit".
Học để có tâm hồn khả ái và yêu thường với một thái độ sống tích cực là rất có lợi cho sức khỏe. Học thư giãn và tận hưởng cuộc sống.
f) Các tế bào ung thư không thể sống trong một môi trường dưỡng khí (oxygénée). Luyện tập thể dục hàng ngày, hít thở sâu giúp lấy thêm nhiều oxy vào các tế bào. Liệu pháp oxy là một yếu tố giúp tiêu diệt các tế bào ung thư.
1. Không để hộp nhựa trong microwave.
2. Không để chai nước trong tủ lạnh.
3. Không để tấm nhựa trong microwave.
g) Các hoá chất như dioxin gây ung thư, đặc biệt là ung thư vú. Dioxin rất có hại, đặc biệt là đối với các tế bào cơ thể.
Đừng để trong tủ lạnh chai nước nhựa bởi vì nhựa sẽ "đổ mồ hôi" dioxin và làm nhiễm độc nước uống.
Gần đây, Tiến sĩ Edward Fujimoto, Giám đốc chương trình Wellness ở bệnh viện Castle, xuất hiện trong một chương trình truyền hình giải thích sự nguy hiểm của dioxin.
Ông nói rằng chúng ta không nên đặt hộp nhựa trong microwave, đặc biệt là các loại thực phẩm có chứa chất béo. Ông nói rằng do sự kết hợp của chất béo và nhiệt lượng cao, nhựa sẽ truyền dioxin vào thực phẩm và do đó vào cơ thể chúng ta. Thay vào đó, bạn có thể sử dụng thủy tinh như Pyrex hoặc gốm sứ để đun nấu.
Thứ Sáu, 25 tháng 4, 2014
Thứ Năm, 17 tháng 4, 2014
CHÁU YÊU
Thứ Tư, 16 tháng 4, 2014
Thứ Sáu, 11 tháng 4, 2014
NGHIÊN CỨU THÊM VỀ VĂN HỌC HIỆN ĐẠI VN
VH VIỆT NAM HIỆN ĐẠI QUA CÁI NHÌN CỦA NGƯỜI NƯỚC NGOÀI - VỤ NHÃ THUYÊN
Hoàng Hưng
Tác giả gửi Văn Việt
(Tham
luận tại Hội nghị Giới thiệu Văn học VN ra nước ngoài, Hà Nội tháng
1/2010. Phần lớn của Tham luận đã được ông Trưởng ban Tổ chức đề nghị
lược bỏ)
Trong
cán cân giao lưu văn học VN-quốc tế, “nhập” áp đảo “xuất” với
tỷ số tuyệt đối. Giới thiệu văn học VN đương đại ra quốc tế
vẫn là ưu tư canh cánh của những người yêu “chuông nhà”. Làm sao
cải thiện về căn bản tình trạng này? Muốn có câu trả lời thiết
thực, không duy ý chí, tưởng cũng nên bắt đầu bằng việc “khảo
sát thị trường”.
Khảo sát bằng cách nào? Trong điều kiện một cá nhân đơn lẻ, không
có phương tiện nào khác, tôi thử dùng công cụ dễ kiếm nhất, nhanh
nhất, mà cũng có lẽ là trung thực nhất, là lướt mạng, để xem
những tác phẩm nào gây ấn tượng nhất, và xem người đọc Phương Tây
(người đọc thực tế và tiềm năng lớn nhất của chúng ta ở nước
ngoài) nói gì về chúng? Từ đó, có thể gợi ý về con đường chinh
phục thế giới của các nhà văn nhà thơ ta.
Về văn xuôi
Cho đến nay, có 5 tác phẩm được người đọc bình chọn 4,5/5 trên
mạng quan trọng nhất về sách là Amazon.com và vài mạng khác, cũng
là những tác phẩm có nhiều người bình luận.
1/ Nỗi buồn chiến tranh (NBCT) của Bảo Ninh (The
Sorrow of War, bản dịch tiếng Anh của Phan Thanh Hảo, Frank Palmos
hiệu đính): Cho đến nay vẫn xếp vị trí đầu bảng trong số các tác
phẩm được bạn đọc phương Tây chú ý. Báo The Independent trao giải
Sách nước ngoài hay nhất năm 1994. Năm 2010, tổ chức Hội Tác giả Anh
quốc (the British Society of Authors) xếp vào 50 cuốn sách dịch hay nhất
TK 20.
Một số tác giả Anh người so sánh với Mặt trận phía Tây không có gì
lạ của Remarque. Có nhà phê bình xếp nó trong top 10 các tiểu
thuyết Đông Nam Á, có người lại nói nó xứng đáng được giải Pulitzer
(giải văn học sáng giá nhất của Mỹ).
“…has been placed among the top ten Southeast Asian novels. It “vaults
over all the American fiction that came out of the Vietnam War,” says
one critic, boldly. It has been called Pulitzer-worthy, and has been
compared by numerous robots to All Quiet on the Western Front”
(Kenneth Champeon, nhà văn, mạng ThingsAsia)
Nhận định của báo The Independent:
“NBCT bay cao bên trên [những cách nhìn lãng mạn hoá hay công thức hoá
của những tác phẩm về chiến tranh VN của cả Mỹ lẫn VN]… Nó tiến và lui
về thời gian, vào và ra nỗi thất vọng, kéo ta xuống khi người anh hùng
đơn độc dẫn ta đi qua địa ngục riêng tư của anh trên cao nguyên Trung
Việt, hay kéo ta lên khi tinh thần của anh lên cao. Đó là một cuốn tiểu
thuyết chiến tranh hay và một cuốn sách kỳ diệu”
”The Sorrow of War soars
above all this. … It moves backwards and forwards in time, and in and
out of despair, dragging you down as the hero-loner leads you through
his private hell in the highlands of Central Vietnam, or pulling you up
when his spirits rise. It is a fine war novel and a marvellous book.”
• Phẩm chất đầu tiên của NBCT được người đọc nêu lên là chân thực, khách quan, không định kiến chính trị:
“Không chạy trốn sự dữ dội và hiện thực trần trụi. Tác giả là một người
sống sót trong cuộc chiến, chiến đấu trong quân đội Bắc VN chống Mỹ,
nhưng Bảo Ninh không có hảo ý với cả quân đội Bắc VN cũng như người Mỹ
và đồng minh. Trong cuốn tiểu thuyết này không có chủ nghĩa lãng mạn, mà
chỉ là sự chân thực. Kiếp sau khi dạy học, tôi sẽ yêu cầu học
sinh của mình đọc nó đối chiếu với tác phẩm “The Things They
Carried” của Tim O’Brien (tác phẩm về chiến tranh VN của nhà văn
Mỹ nổi tiếng, đã có bản tiếng Việt của Trần Tiễn Cao Đăng – HH).
Những cuốn sách ấy có thể làm chấm dứt một cuộc chiến”
There is no escaping the intensity and naked reality presented. The
author is a survivor of the American War who fought in the North
Vietnamese Army, but Bao Ninh is kind to neither the North Vietnamese
Army nor the Americans and its allies. There’s no romanticism in this
novel, only honesty. In my next life, when I’m a teacher, I will assign
this to my class to be read back-to-back with Tim O’Brien’s “The Things
They Carried”. These books could stop a war.
(Edward j. Santella, 1/57 người bình luận trên Amazon.com)
• Nhân bản cũng là giá trị được nhấn mạnh:
“Là một cuốn tiểu thuyết chứ không phải luận văn, The Sorrow of
War không cho ta câu trả lời. Nó chỉ yêu cầu chúng ta thừa nhận
một sự thật, ngay cả với những cuộc chiến tranh gọi là “chính
nghĩa”: “Công lý có thể đã thắng, nhưng sự tàn bạo, chết chóc, và
bạo lực phi nhân cũng đã thắng”.
A novel and not a treatise, The Sorrow of War does not answer. It only
asks us to recognize a truth even of so-called “just” wars: “Justice may
have won, but cruelty, death, and inhuman violence have also won.”
(Kenneth Champeon)
• Một bất ngờ cho những ai kết tội cuốn tiểu thuyết của Bảo
Ninh là có cái nhìn tiêu cực đối với người lính miền Bắc VN.
Ngược lại, không ít bạn đọc phương Tây phát hiện vẻ đẹp của
người VN qua cuốn sách, đối nghịch với sự tuyên truyền của phim
ảnh Mỹ:
“(Cuốn tiểu thuyết) cố gắng nhân bản hóa hoàn toàn một dân tộc
cho đến nay vẫn thường bị xem như những kẻ cuồng tín hành động
như người máy”
The novel “manages to humanize completely a people who until now have usually been cast as robotic fanatics.”
(The Sunday Times (London))
“Nỗi buồn chiến tranh ca tụng sức chịu đựng bền bỉ của người lính Bắc
VN… Vai trò của người phụ nữ thể hiện trong cuốn sách… Tôi chưa từng
biết khía cạnh này trong văn hóa Việt Nam cho đến khi đọc cuốn
sách này và tôi liền theo học một khóa về lịch sử Việt Nam. Văn
hóa phương Tây không thường vẽ chân dung những người phụ nữ bảo
vệ gia đình và chiến đấu cho đất nước. Là một phụ nữ và một
phụ nữ từng là lính, tôi cảm thấy mình có mối liên thông với
những người phụ nữ trong truyện… Tôi hâm mộ họ. Nhìn thấy cái
cách họ được miêu tả tôi nhận ra rằng trong văn hóa Mỹ của mình
có lẽ tôi chẳng bao giờ thấy một chủ nghĩa anh hùng như thế.
Phần lớn các nữ anh hùng trong truyện bị giết hoặc bị hiếp,
nhựng họ vẫn được phép trở thành anh hùng như thế. Tôi thấy đó là
sự khác biệt lớn giữa Nỗi buồn chiến tranh và những phim sách
“American made”. Việc đọc cuốn sách này cho tôi thêm một chiều kích
mới đối với cuộc chiến tranh VN”
The Sorrow of War celebrated the North Vietnamese soldier’s endurance
and perseverance. It described in detail what the “other side” went
through. The role of women was covered in this book. Kien fought
alongside and against women during the war. He admired the women
soldiers he fought with. He respected them. I have never encountered
this aspect of the Vietnamese culture till I read this book and took a
history course about Vietnam. Western culture does not regularly portray
women as defenders of their homes and warriors for their country. As a
woman and as a woman who was a soldier I felt a connection to the women
in this story. No one ever told them they could not fight and die for
their country. I admired them. I saw the way they were portrayed and
realized that in my American culture I would probably never see such
heroism. Most of the heroines in this novel were either killed or were
raped and yet they were still allowed
to be those heroines. I see this as a large difference between The
Sorrow of War and American made movies and books. Reading this book has
added a new dimension to the Vietnam War for me. I am glad I had the
opportunity to see the many sides of the issue.
(Susan L. Birmingham, AL, Hoa Kỳ, mạng Amazon.com)
2/ Chốn vắng của Dương Thu Hương,
bản tiếng Pháp (Terre des oublis của Phan Huy Đường), là một thành
công ở Pháp (gần 200.000 bản phát hành, giải thưởng của báo Elle, tái
bản trong các bộ sách Le Livre de Poche, Robert Laffont,…) tiếp theo là
các bản dịch xuất bản ở Mỹ (bản tiếng Anh No Man’s Land của Nina
McPherson) ở Ý và Tây Ban Nha.
• Nhiều phẩm chất được ca ngợi, nổi bật là về sự thể hiện
sinh động tâm lý xã hội VN thời hậu chiến và sự quyến rũ của bút
pháp “Một sự đột nhập lôi cuốn vào lãnh thổ ít người biết: chấn thương
gây ra bởi cuộc chiến tranh VN đối với những người chiến thắng”
”A fascinating foray into little-charted territory: the trauma wrought by the Vietnam War on its ‘winners’.”
(Kirkus Reviews)
“Hương gợi lên vẻ đẹp của xứ sở, những truyền thống Việt Nam
xưa, và những tiết tấu phi thời gian của đời sống hàng ngày, đối
âm với những bi kịch của sự đàn áp và chiến tranh. Chia sẻ
những tâm sự đau khổ của mỗi tính cách bị mắc vào cái mạng thắt
nghẹt của tuyệt vọng, bổn phận, ham muốn, cảm thương, và giận
dữ, Hương dẫn một câu chuyện quyến rũ, chính xác về chi tiết và
có tầm rộng lớn. Một cuốn tiểu thuyết làm ta say đắm, phân tích
một cách sắc sảo bản chất của chiến tranh và hòa bình, sự nghèo
nàn và giàu có về vật chất và tinh thần, cái tôi và cộng đồng, sự
cưỡng bức và tình yêu”
Huong evokes the beauty of the land, Vietnam’s ancient traditions, and
the timeless rhythms of daily life in counterpoint to the tragedies of
communist oppression and war. Privy to the anguished thoughts of each
character caught in this strangling web of desperation, duty, sacrifice,
desire, compassion, and rage, Huong spins a captivating tale precise in
details and grand in scope. A ravishing novel that exquisitely parses
the nature of war and peace, material and spiritual poverty and wealth,
self and community, coercion and love.
Donna Seaman (Booklist _ American Library Association)
“Đó là một cuốn tiểu thuyết cao cả với bút pháp thơ, trộn lẫn
nhục cảm với sự tàn bạo trong những miêu tả lộng lẫy đầy màu
sắc và mùi hương. Người đọc không thể không bị chao đảo, chói lóa
sau khi đọc nó”
C’est un sublime roman à l’écriture poétique mêlant la sensualité et la
cruauté dans de somptueuses descriptions remplies de couleurs et
d’odeurs. Le lecteur ne peut qu’en sortir ébloui, chaviré
(Florinette “www.leslecturesdeflorinette.com” (Aquitaine, Pháp)
3/ Thiên đường mù của Dương Thu Hương (Bản dịch tiếng Anh Paradise of the Blind của Nina McPherson): Được chọn trong “500 cuốn sách lớn của tác giả nữ”:
• Sự hấp dẫn của “xứ lạ” và hiện thực xã hội:
“Cuốn sách thể hiện được vẻ đẹp lớn lao và những sự thú vị đầy ấn tượng
của xứ sở độc đáo này, cũng như sự xuống cấp và hiện thực ảm đạm của
thời hậu nội chiến”
The book captures the enormous beauty and sensory delights of this
unique land, as well as the degradation and grim realities of the
post-civil-war period.
(School Library Journal)
- Nổi bật là sự thể hiện đặc sắc văn hóa Việt Nam: “… một
chuyện kể giàu chi tiết và không định kiến. Tác giả…miêu tả sự
phức tạp của văn hóa Việt Nam – sự trung thành với gia đình và tổ
tiên, giá trị biểu trưng của thức ăn, sự phân biệt giai cấp và
cảm giác luôn luôn tuyệt vọng trộn lẫn với lòng tự hào”
… a narrative rich in detail and free of cliche. The author, who lives
with her children in Hanoi, depicts the complexity of Vietnamese
culture–the allegiance to family and ancestors, the symbolic value of
food, class distinctions and the continuing sense of desperation mingled
with pride.
(Publishers Weekly)
“Qua con mắt của Hằng, chúng ta nhận thấy tầm quan trọng của những ràng
buộc gia đình và hiểu được vai trò của thực phẩm, nghi lễ và sự thờ
cúng tổ tiên trong xã hội VN. Chúng ta cảm nhận nỗi khổ đau của người
phụ nữ sống trong một xã hội nam quyền, ở đó họ chỉ ngang hàng
với đày tớ”
Through Hang’s eyes we perceive the importance of family ties and
understand the role that food, ritual, and ancestor worship play in
Vietnamese society. We see the Communist legacy as relatives and friends
turn on one another in an effort to become the “king of the mountain,”
and we feel the pain of women living in a male-dominated society where
they are on equal footing only with servants. Highly recommended for
Asian studies and women’s studies collections.
(Library Journal)
4/ Tuyển tập truyện ngắn Sang sông của Nguyễn Huy Thiệp (Crossing the River bản dịch của Nguyễn Nguyệt Cầm)
• Cũng là về đặc sắc văn hóa VN:
“Một đề tài trở đi trở lại khai thác tình trạng không thích hợp
của các anh hùng và những niềm tin truyền thống. Tuy nhiên, phần
lớn hình ảnh, môi trường xung quanh, và sự kiện thấm đẫm triết
lý đạo đức Việt Nam và Phật giáo cùng với huyền thoại và lịch
sử Việt Nam. Về nhiều mặt, sự liền kề của tranh đấu có ý thức
với chấp nhận hài hước đen tối dường như là một đặc điểm cốt
yếu của văn hóa Việt Nam”
A recurring theme explores the inadequacy of heroes and traditional
beliefs. However, much of the imagery, surroundings, and events are
steeped in Buddhist and Vietnamese moral philosophy and Vietnamese myth
and history. In many ways, this juxtaposition of aware struggle and
darkly humorous acceptance seems to be a quintessential feature of
Vietnamese culture
Allison Martin “Book Reviewer” (Amazon.com)
5/ Tập truyện ngắn Trong sương hồng hiện ra của Hồ Anh Thái (Behind the Red Mist bản dịch của Wayne Karlin & Nguyễn Quí Đức)
• Phẩm chất sâu sắc của nội dung xã hội đi đôi với đặc sắc của bút pháp:
“Một tập hợp rất đẹp gồm 10 truyện ngắn của một nhà văn có
tài, khai thác đời sống hậu chiến ở Việt Nam quê hương ông với
sự trộn lẫn chủ nghĩa hiện thực tàn bạo và huyễn tưởng tượng
trưng chủ nghĩa. Chủ đề căn bản của Thái là sự tương phản giữa
chủ nghĩa ái quốc ngây thơ với chủ nghĩa hiện thực cay đắng
của những thế hệ sau bị tổn thương vì lịch sử cuộc chiến kéo
dài gần đây của đất nước họ”
A fine collection of ten stories, all published in the last two
decades, by a talented writer who explores postwar life in his native
Vietnam with a commanding mixture of brutal realism and symbolist
fantasy. Thai’s primary subject is the contrast between naïve patriotism
and the embittered realism of later generations scarred by their
country’s recent history of prolonged warfare
(Kirkus Reviews)
“Châm biếm, siêu thực và ẩn dụ ngập tràn nhiều truyện ngắn
trong tập truyện được xây dựng một cách lịch lãm này” “Satire,
surrealism and allegory suffuse many of the stories in this
elegantly constructed collection…”
(New York Times Book Review)
Về Thơ
Dễ hiểu tại sao thơ rất ít được chú ý. Dịch thơ là cực khó,
nhất là khi sự khác biệt vê ngôn ngữ và văn hóa giữa VN và phương
Tây quá lớn, và khi thị hiếu toàn cầu ngoảnh mặt với thể loại
văn học này.
1/ Gây được tiếng vang rộng rãi là Tuyển tập Chó đen và đêm, Thơ VN đương đại (Black Dog, Black Night, Contemporary Vietnamese Poetry)
do Nguyễn Đỗ và Paul Hoover chọn và dịch, NXB Milkweed 2008, gồm
17 nhà thơ trong nước và 4 nhà thơ gốc Việt công dân Mỹ.
• Cuốn sách được tạp chí thơ online Coldfrontmag bình chọn là tuyển thơ dịch hay nhất của Mỹ năm 2008
• Tập đoàn những NXB nổi tiếng như Macmillan Reference USA™, Charles
Scribner’s Sons® hoặc Primary Source Media™… đã quyết định chọn 15 bài
thơ của 11 nhà thơ Việt Nam trong tuyển tập Black Dog, Black Night để
đưa vào tổng tập văn học thế giới, một loại SGK tham khảo văn học thế
giới bằng tiếng Anh. Tên tổng tập này LitFinder (tạm dịch: Tìm Văn), do
nhà thơ Emma Hull biên tập, xuất bản tại chi nhánh ở Anh quốc.
Danh sách 11 nhà thơ và 15 bài thơ Việt Nam đã được chọn, xếp theo thứ
tự của NXB: Hữu Loan (Màu tím hoa sim), Tế Hanh (Hà Nội vắng em), Văn
Cao (Có lúc; Năm buổi sáng không có trong sự thật), Trần Dần (Cột đèn
câm), Hoàng Hưng (Người đàn bà điên; Người về), Nguyễn Khoa Điềm (Vườn
quả của mẹ), Ý Nhi (Lời bài hát; Buổi sáng), Nguyễn Quang Thiều (Linh
hồn đàn bò), Nguyễn Đỗ (Hồi ức một ngày; Với), Xuân Quỳnh (Thơ tình cuối
mùa Thu), Nguyễn Duy (Đà Lạt một lần trăng).
• Một bài thơ trong tuyển đã được bình luận khá kỹ trên mạng của
tổ chức thơ hùng mạnh nhất của Mỹ là Poetry Foundation (Người về – A Man Returning Home):
“Tôi xếp bài thơ này vào Hồ sơ “Những bài thơ hâm mộ” vì tôi mê cái
cách sử dụng trạng thái nghiêng của nó. Tôi yêu lối bất an của
cuộc sống người đàn ông này dường như đồng thời tăng tiến và
giảm đi với cường độ lớn. Cái “tiếng bâng quơ hỏi” có thể sẽ
dường như bớt đe dọa hơn nếu như nó đến sớm hơn trong bài thơ, như
sau câu thơ nói về các con ông ta chẳng hạn. Nhưng ở đây, đến
cuối bài thơ, khi chúng ta thấy được những sự bất an về thể xác
như “một cái vỗ vai” khiến ông hoảng hốt đến thế, thì tiếng nói
kia trở nên đáng lo ngại không thể tin nổi. Tiếng nói ấy đòi ông
làm gì vậy? Dòng thơ ngắt sau cái giật mình đặc biệt hiệu quả ở
chỗ cái “giật mình” đến liền sau sự đe dọa của những câu hỏi.
Bây giờ cái ý người đàn ông giật mình dường như báo động một cách
khủng khiếp, và mặc dù lẽ ra chúng ta được trấn an vì thật ra ông
ta giật mình chỉ vì một sự nhỏ nhặt như thế, thì cuối cùng sự
đe dọa của “một cái vỗ vai” lại tăng lên chứ không mất đi. Tôi
cũng yêu cái từ không xác định “cõi ấy” và việc từ này được viết
hoa và in nghiêng trong bản dịch (That). Hoàng Hưng để cho người
đọc quyết định người đàn ông này trở về từ chỗ nào. Tôi có
những phỏng đoán của mình, nhưng câu trả lời chính xác cho “cõi
ấy” có thể ít ý nghĩa hơn nhiều so với câu trả lời mà chúng ta có
được về những gì “cõi ấy” đã gây ra cho người đàn ông. Và với
những chi tiết dồn dập trong bài thơ, nỗi khiếp hãi cái “cõi ấy”
có thể ngày càng dồn sức nặng theo sự tiến triển của bài thơ.
Hãy xem xét cái cách những sự lựa chọn phản ánh những âu lo. Hay
là hãy xem cái cách những âu lo phản ánh những lựa chọn. Có gì khác
nhau giữa hai cái?
I placed this poem in my Admired Poems file because I was enamored of
its use of the list. I love the way the discomforts of this man’s life
seem to simultaneously increase and decrease in magnitude. The “aimless
voice ask[ing] questions” might have seemed less daunting had it come
earlier in the poem, next to the mention of his kids for instance. But
here at the end of the poem, when we find that physical comforts like “a
touch to his shoulder” frighten him so, this voice becomes incredibly
worrisome. What is the voice asking him to do? The line break after
jumps is particularly effective given that the line “He jumps” comes in
such proximity to the menace of those questions. Now the idea of the man
jumping seems terribly alarming, and though we ought to be calmed by
the fact that he’s jumped at such a little thing, in the end the menace
of the “touch to his shoulder” increases rather than dissipates. I also
love the nonspecific word “That,” and how, in this version of the poem,
the word is presented capitalized and in italics. Hoàng Hung allows the
reader to decide what it is this man has returned from. I have
conjectures, but the specific answer to what “That” might be is
significantly less interesting than the answers we get to what “That”
has done to the man. As with the details accumulated in the poem, the
horror of what “That” might be accrues weight as the poem progresses.
Consider the way choices reflect anxieties. Or, consider the way
anxieties reflect choices. Is there any difference between the two?
Camille Dungy (nhà thơ, PGS khoa Viết văn trường Đại học San Francisco State)
http://www.poetryfoundation.org/harriet/2009/07/a-few-prompts-drawn-from-wanderinghome/
2/ Tác phẩm Thơ nhận được nhiều lời bình: Tập Đường xa của Nguyễn Duy (Nguyễn Bá Chung & Kevin Bowen dịch)
“Đây là một Whitman của Việt Nam: một nhà thơ yêu đất nước mình,
bị kẹt vào một cuộc xung đột tàn bạo giữa miền Bắc và miền Nam,
một nhà thơ ôm trọn sự hỗn mang và khắc tạc nó thành bài ca.
Những bài thơ đen tối nhất của ông vẫn dành chỗ cho sự hồi sinh
tập thể, hay ít nhất là sự sống sót”.
Here is a Vietnamese Whitman: a poet who loves his country, trapped in a
brutal conflict between North and South, a poet who embraces chaos and
sculpts it into song. His darkest poems leave room for collective
rebirth, or at least survival. ‘Whatever happens, the land lives within
us,’ he writes. ‘We are the people–we will endure.’”
(Catherine A. Salmons, The Boston Sunday Globe)
Những bài thơ chiến tranh mạnh mẽ một cách bình lặng của Duy là không thể quên được
”Duy’s quietly potent war poems are unforgettable”
(The Boston Sunday Globe)
… một giọng say đắm, giọng của lòng can đảm và lòng tin, hy
vọng và tình yêu. Ông khai thác vẻ đẹp của ngôn ngữ trực tiếp,
giản dị theo một cách vừa cá nhân vừa chính trị, không màu mè hay
giáo huấn
The English translation reveals Nguyen Duy as a passionate voice, one
of courage and conviction, hope and love. He mines the beauty of simple,
direct language in a way that is personal and political, without
rhetoric or didacticism.”
(Lori Tsang, Multicultural Review)
Vài điều rút ra:
Các tác phẩm trên được ưa thích vì những khía cạnh chủ yếu sau: khách
quan trung thực trong việc tái hiện hiện thực xã hội, không định kiến
(định hướng) chính trị; thấm đẫm chất nhân bản, nhân văn; đặc sắc về tâm
lý-văn hóa Việt Nam; lối viết tương đối hiện đại. Cần xoá bỏ ngộ nhận:
những tác phẩm được nước ngoài ưa chuộng là do nội dung “chống chế độ”
Việt Nam (như đã dẫn chứng về Nỗi buồn chiến tranh). Người đọc chân
chính trên thế giới có cái nhìn rất khách quan về giá trị của một tác
phẩm văn học, tất nhiên dựa trên những tiêu chí phổ quát của thời đại.
Thương hiệu cho văn học Việt Nam chỉ có được một khi có những tên tuổi
đủ sức chinh phục công chúng thế giới. Mà muốn chinh phục thế giới,
trước nhất phải độc đáo – sự độc đáo của văn hóa và hiện thực Việt
Nam nhưng thể hiện ở tận mức cá nhân chứ không chỉ là “đậm đà bản sắc
dân tộc” nói chung. Nhưng sự độc đáo ấy phải mang một tư tưởng nhân văn
cao sâu ở tầm nhân loại. Một đóng góp thực sự vào văn học thế giới phải
là sản phẩm “3 trong 1” (cá nhân – dân tộc – nhân loại) như thế.
Gần đây tôi thường nghĩ đến một hiện tượng văn hoá Việt Nam có sức mạnh
chinh phục người phương Tây rất lớn: đó là những ý niệm và thực hành
Phật gíao đang được hiện đại hoá theo phong cách rất Việt Nam của
Thiền sư Nhất Hạnh (được gọi là “Pháp môn Làng Mai”). Tư tưởng Phật
giáo là một tư tưởng phổ quát đã thấm nhuần sâu xa và được Việt Nam hoá
tích cực nhất trong lịch sử dân tộc. Thích Nhất Hạnh cũng là một nhà
văn, ông có vài chục cuốn sách được xuất bản trên thế giới với
hàng triệu bản. Hiện tượng này có thể cho ta những gợi ý tốt về
con đuờng ra thế giới của văn học VN./.
1/2010
Phùng Hà Thanh
Bài viết “Một Luận Văn Mơ Hồ và Sai Lầm”
đăng trên Văn Nghệ số 28 (2787) ra ngày 13 tháng 7 năm 2013 của Ban Lý
Luận Phê Bình đánh giá rằng luận văn thạc sỹ “Vị Trí Của Kẻ Bên Lề: Thực
Hành Thơ Của Nhóm Mở Miệng Từ Góc Nhìn Văn Hóa” của Đỗ Thị Thoan (Nhã
Thuyên) thiếu tính khách quan của khoa học trong cách thức triển khai
nghiên cứu cũng như trình diễn một thứ ngôn ngữ khoa trương, không rõ
ràng chặt chẽ, không phù hợp với văn phong khoa học. Vâng, theo nhận
định của tôi, luận văn của Đỗ Thị Thoan không phải là một nghiên cứu
khoa học. Nói ra điều này không có nghĩa là tôi hưởng ứng bài viết.
Trái lại, tôi không thấy giá trị của việc phê phán một công trình nghiên
cứu theo hướng nhân văn là không khoa học. Hành động đó giống như việc
phê phán một người là hỏng vì người ấy là con gái chứ không phải là con
trai, là da trắng chứ không phải da màu. Trong bài viết này tôi không
tham vọng bảo vệ luận văn thạc sỹ ấy mà chỉ muốn chia sẻ rằng học thuật
không chỉ có nghiên cứu khoa học mà còn có nghiên cứu nhân văn. Theo
tôi, dùng từ “khoa học” để chỉ nghiên cứu học thuật nói chung đe dọa
những đường hướng mang tính nhân văn/nghệ thuật.
Giải thích các thuật ngữ rất dễ rơi vào yêu cầu giải thích bất tận bởi
khi nói về một thuật ngữ này thường sẽ cần dùng tới những thuật ngữ khác
cũng nên được giải thích. Cách giải thích của tôi chỉ là một trong
nhiều khả thể. Tôi thừa nhận mình tránh giới thiệu một số thuật ngữ mà
sự hiểu biết chúng có thể làm sáng rõ nhiều vấn đề được nói tới song
việc giải thích chúng lại vượt quá khả năng viết của tôi tại thời điểm
này. Một số khái niệm được nhắc tới trong bài là những khái niệm khó, có
nhiều nghĩa và lịch sử phức tạp- tôi chưa thể bàn luận tường tận. Hiểu
biết của tôi còn hạn chế, mà trình bày hết những điều mình biết cũng là
không thể. Tôi chỉ gói ghém câu chữ làm sao cho ra được một ý rằng trong
học thuật khoa học không phải là tất cả. Bài viết này không chỉ là sự
đối đáp với Ban Lý Luận Phê Bình của báo Văn Nghệ. Nó còn là lời trần
tình với những ai đang dùng từ “khoa học” cho tất cả các hoạt động
nghiên cứu, không chỉ trong lĩnh vực văn chương.
Tôi sẽ không dùng nhiều trích dẫn, nhưng xin bày tỏ lòng biết ơn tới tác
giả tôi gặp gỡ đầu tiên khi mới tìm hiểu về nghiên cứu học thuật, Michael Crotty, và những triết gia sau này ảnh hưởng sâu sắc tới cách tôi hiểu về học thuật, Michel Foucault, Jacques Rancière và Lynn Fendler.
Bài viết sẽ được đăng thành 3 kỳ. Kỳ 1 là những mô tả chung về vấn đề
tôi quan tâm. Kỳ 2 bàn về nghiên cứu khoa học. Kỳ 3 nói tới nghiên cứu
nhân văn, tính học thuật của nghiên cứu và trình bày lời kết. Người viết
mong bạn đọc kiên nhẫn, rộng lượng và chờ những trao đổi thiện chí.
Phân Biệt Nghiên Cứu Khoa Học và Nghiên Cứu Nhân Văn
1. Những Mô Tả Chung
1.1. Tính Thời Thượng và Sự Lấn Át của “Nghiên Cứu Khoa Học”
Trong dụng ngôn thông thường ở Việt Nam từ “nghiên cứu” hay đi kèm với
từ “khoa học.” Rất nhiều phòng ban, hội thảo, tác phẩm nghiên cứu vượt
ra ngoài khuôn khổ của nghiên cứu khoa học hoặc không phải là nghiên cứu
khoa học vẫn tự định danh cho mình bằng cụm từ ấy. Bìa 1 luận văn của
Đỗ Thị Thoan có dòng: LUẬN VĂN THẠC SỸ: KHOA HỌC NGỮ VĂN. Từ “khoa học” ở
đây có nghĩa gì? Tôi không rõ Khoa Ngữ Văn trường Đại Học Sư Phạm Hà
Nội, Việt Nam hay là “phương Đông” đã sáng tạo nghĩa từ “khoa học” khác
với nghĩa từ “science” của “phương Tây” như thế nào[1].
Trong thời đại toàn cầu hóa ngày nay, “khoa học” đã trở thành một đơn
vị ngôn ngữ được lưu chuyển rộng rãi khắp các quốc gia và nghĩa phổ biến
của nó đang bị quy định bởi văn minh phương Tây. Bài viết này làm việc
với nghĩa phổ biến của “khoa học” trong nghiên cứu học thuật trên thế
giới.
Tôi tưởng tượng rằng tất cả các nghiên cứu ở Đại Học Sư Phạm Hà Nội và
nhiều trường đại học đầu ngành khác ở Việt Nam, ít nhất là trong các thủ
tục hành chính, đều gọi là “nghiên cứu khoa học.” Vị thế nổi bật của
khoa học trong xã hội hiện đại khiến cho “nghiên cứu khoa học” trở nên
thời thượng và lấn át. Đây không phải là hiện tượng chỉ có ở Việt Nam.
Tại Mỹ, người ta rất ít dùng cụm từ “scientific research” (nghiên cứu
khoa học) nhưng từ “research” (nghiên cứu) cũng thường được ngầm gắn với
tính khoa học. Tuy vậy, nghiên cứu học thuật trong các ngành xã hội
không chỉ có nghiên cứu khoa học. Nó còn có thể mang tính nhân văn/nghệ
thuật. Năm 2009, Hiệp Hội Nghiên Cứu Giáo Dục Hoa Kỳ AERA đưa ra chuẩn
báo cáo nghiên cứu hướng nhân văn cho ngành giáo dục và theo đó thuật
ngữ “nghiên cứu hướng nhân văn” (humanities oriented research) dùng để
chỉ “các loại hình nghiên cứu quen thuộc được dùng trong các lĩnh vực
như lịch sử, triết học mà rõ ràng không phù hợp với các chuẩn khoa học
xã hội cũng như các đường hướng mới nổi trong nghiên cứu giáo dục không
xác định với các ngành nhân văn truyền thống” (Xem tr. 481 tại đây).
1.2. “Khoa Học Xã Hội” và “Nhân Văn” (Không Phải là “Khoa Học Nhân Văn”)
Chúng ta đang ở Việt Nam chứ không phải là ở Mỹ, nhưng tôi dám chắc giới
học thuật Việt Nam đã phát triển nghiên cứu nhân văn cùng với nghiên
cứu khoa học. Chúng ta có trường “Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn”,
được dịch sang tiếng Anh là “University of Social Sciences and
Humanities.” Những người coi khoa học là bao trùm tất cả các hoạt động
học thuật của con người có thể áp “khoa học” lên “nhân văn”, và dịch
“humanities” thành “khoa học nhân văn”, một cách dịch khá phổ biến, được
sử dụng trong nhiều từ điển uy tín. Cũng có thể cách dịch này đến từ
một thói quen ngôn ngữ: khi “khoa học xã hội” đi kèm với “nhân văn” và
từ “nhân văn” thường đứng sau thì người ta dễ cho rằng ngành xã hội và
ngành nhân văn cùng nền tảng khoa học và chỉ khác nhau về đối tượng
nghiên cứu. Theo tôi được biết, nếu nói tới tính khoa học thì song song
với khoa học xã hội là khoa học tự nhiên chứ không phải là nhân văn. Khi
nói tới đối tượng nghiên cứu là các hoạt động xã hội của con người thì
song song với khoa học xã hội (cách tiếp cận khoa học) là nhân văn (cách
tiếp cận nhân văn).
Nếu từ “khoa học” bao trùm tất cả các hoạt động học thuật thì hẳn là nó
không thể chỉ có tính khách quan như Ban Lý Luận Phê Bình báo Văn Nghệ
quan niệm. Dẫu ai đó có gọi nhân văn là “khoa học nhân văn” đi nữa thì
những thực hành nghiên cứu ở những ngành học thuật như nghiên cứu văn
học so với các ngành hướng khoa học xã hội như tâm lý học, ngôn ngữ học
không chỉ có những khác biệt về đối tượng mà còn về cách thức nghiên cứu
cũng như các tiền giả định mà nhà nghiên cứu nương tựa. Những khác biệt
này cần được thừa nhận chứ không phải là bị quy thành lỗi không đúng
chuẩn mực của khoa học.
Như cách nói của giới “nghiên cứu và phê bình” văn học Việt Nam thì luận
văn của Đỗ Thị Thoan thiên về phê bình, và phê bình cũng thuộc địa hạt
của nghiên cứu, nếu “nghiên cứu” được hiểu theo nghĩa rộng, chỉ những
hoạt động tìm tòi có ý thức của con người. Nếu hiểu “nghiên cứu” theo
nghĩa hẹp, quy về “khoa học”, thì vẫn còn từ “phê bình” mở ra một không
gian làm việc tại đó người viết có quyền thể hiện góc nhìn và phong cách
viết cá nhân, không hướng tới sự xác lập chân lý mà tới các giá trị đạo
đức hoặc/và thẩm mỹ.
Trên thế giới, những đường hướng học thuật nhân văn tự tách mình khỏi
nhận thức luận khoa học. Nói một cách khác, có một cách nhìn, một cách
dụng ngôn hiện nay đang có giá trị vì nó phản ánh thực tế cũng như mong
muốn của nhiều người trong giới học thuật: nghiên cứu khoa học và nghiên
cứu nhân văn là khác nhau. Theo cách nhìn và cách dụng ngôn đó, nghiên
cứu khoa học hướng tới chân lý (truth) còn nghiên cứu nhân văn hướng tới
hiệu quả giao tiếp (effect), các giá trị đạo đức (morality) hoặc/và
thẩm mỹ (aesthetics). Có thể hiểu nghiên cứu theo nhân văn là nghiên cứu
không chịu sự quy định của các chuẩn khoa học.
Các ngành học thuật xã hội thường được gọi tên dựa trên đối tượng nghiên
cứu của chúng và theo cách gọi tên như vậy hầu như không có ngành nào
nằm gọn trong cách tiếp cận khoa học hay nhân văn. Phân chia các ngành
học thuật thành ngành xã hội và ngành nhân văn chỉ là sự đơn giản hóa và
mang tính bối cảnh.
Có những ngành thiên về khoa học như kinh tế học, tâm lý học, ngôn ngữ
học, v.v., nhưng cũng có những ngành rộng mở hơn. Người ta có thể tiếp
cận triết học, lịch sử, văn học, giáo dục, nhân chủng học theo hướng
khoa học hay theo hướng nhân văn. Triết học phân tích (analytic
philosophy) thiên về khoa học logic[2] còn
triết học lục địa (continental philosophy) mang tính nhân văn nhiều
hơn. Ngôn ngữ của các triết gia thuộc trường phái triết học lục địa như
Nietzsche, Foucault hay Rancière là thứ ngôn ngữ giàu chất thơ. Viết sử
dựa trên các cứ liệu khách quan, thông qua các quy trình khách quan và
hướng tới các chân lý khách quan chỉ là một trong những đường lối của sử
học. Hayden White,
một sử gia người Mỹ, đã trở nên tiếng tăm với quan niệm viết sử giống
như viết văn. Theo ông tác phẩm sử học có thể phân chia thành các thể
loại giống như các tác phẩm văn học nghệ thuật.
Tại mỗi thời điểm-không gian học thuật cụ thể có thể có một đường hướng
nghiên cứu nổi trội hơn. Nghiên cứu văn học, cùng với triết học và sử
học, từ xưa tới nay vẫn được xếp vào nhóm ngành nhân văn/nghệ thuật vì
chúng rộng mở với các đường hướng nhân văn/nghệ thuật.[3] Tuy
nhiên ở Mỹ, hiện tại phương pháp luận khoa học lấn át hơn trong tất cả
các ngành học thuật xã hội- trừ nghiên cứu văn học. Nếu coi văn học là
một đối tượng nghiên cứu quy định sự hình thành và phát triển của ngành
nghiên cứu văn học thì ngành nghiên cứu này rõ tính đa ngành
(multidisciplinarity) và liên ngành (interdisciplinarity). Lý thuyết và
thực hành của nó giao với lý thuyết và thực hành của các ngành học thuật
khác như triết học, sử học, xã hội học, tâm lý học, ngôn ngữ học v.v.
Theo phân loại thông thường, xã hội học, tâm lý học và ngôn ngữ học là
các ngành khoa học trong khi đó triết học và sử học nằm trong nhóm ngành
nhân văn/nghệ thuật. Dựa trên cách thức nghiên cứu văn học ứng xử với
đối tượng nghiên cứu của mình, người ta có thể xếp các tác phẩm nghiên
cứu văn học vào các ngành đã kể, nhưng thao tác này nhiều khi không cần
thiết và không thực hiện được.
Theo thực tế học thuật ở Việt Nam, các khoa ngữ văn thường có hai mảng
ngôn ngữ và văn học. Mảng ngôn ngữ học mang tính khoa học còn mảng
nghiên cứu và phê bình văn học (theo nghĩa phân biệt với ngôn ngữ học)
không được đặc trưng bởi tính khoa học mà đón nhận nhiều đường hướng
khác nhau. Văn phong của nhiều nhà nghiên cứu và phê bình văn học thành
công là thứ văn phong có sức quyến rũ riêng biệt chứ không phải là thứ
ngôn ngữ sản xuất hàng loạt theo các khung khổ.
Ngay trong những lĩnh vực mà phương pháp luận khoa học hiện chiếm ưu thế
các tổ chức học thuật và cá nhân các học giả vẫn không ngừng nỗ lực tạo
không gian cho những đường hướng nhân văn/nghệ thuật. Việc xuất bản bộ
chuẩn nghiên cứu định hướng nhân văn năm 2009 của Hiệp Hội Nghiên Cứu
Giáo Dục Hoa Kỳ AERA là một ví dụ. Cuối năm 2010, đầu năm 2011, Hiệp Hội
Nghiên Cứu Nhân Chủng Học Hoa Kỳ AAA đã loại bỏ từ “khoa học” trong
nhiều đoạn văn bản về tầm nhìn của tổ chức và khẳng định sức mạnh của
nhân chủng học nằm ở sự liên lạc giữa các ngành khoa học và nhân văn
(xem tạiđây và đây).
Không có những động thái tương tự trong ngành nghiên cứu và phê bình
văn học ở các nước phát triển có lẽ bởi khoa học chưa từng lấn át ngành
này.
2. Sơ Lược về Nghiên Cứu Khoa Học
2.1. Giới Thiệu Chung
Trình bày lịch sử phát triển của khoa học xã hội phương Tây có thể đem
lại nhiều thông tin hữu ích nhưng trong khuôn khổ bài viết này tôi quan
tâm hơn tới những nghĩa, vấn đề đương thời của “nghiên cứu khoa học.”
Nghiên cứu khoa học là một hành trình tìm kiếm sự thật (fact)/chân lý
(truth) về sự vật hiện tượng được xác định là vấn đề nghiên cứu dựa trên
phương pháp luận khoa học. Phương pháp luận (methodology) của một
nghiên cứu khoa học là hệ thống các phương pháp (method) và kĩ thuật
(technique) được thiết kế, thực thi và trình bày một cách tường minh sao
cho người nghiên cứu có thể tìm được và trình hiện sự thật/chân lý mang
tính “khách quan” (objectivity) về vấn đề nghiên cứu. Phương pháp luận
khoa học dựa trên một nhận thức luận (epistemology) giả định rằng con
người có thể nhận thức được chân lý “khách quan” về hiện thực và những
chân lý “khách quan” này có giá trị cho đời sống của con người, một cách
tự thân hoặc như một công cụ.
Giới học thuật đã xác lập các phương pháp (luận) nghiên cứu khoa học
khác nhau. Mỗi phương pháp (luận) là một công thức- nhà nghiên cứu vận
dụng linh hoạt mà nghiêm ngặt để công trình được đánh giá là có tính
khoa học. Mặc dù khoa học xã hội có những bước chuyển mình nhờ sự tìm
tòi, đón nhận những phương pháp nghiên cứu mới và sự phủ định các chân
lý đã được xác lập, nghiên cứu khoa học đặt trọng tính chuẩn mực. Nó dựa
trên những phương cách đã xác lập và hướng tới sự xác lập chân lý. Các
tác phẩm nghiên cứu khoa học cũng cần được trình bày theo các quy chuẩn
đã xác lập. Khó có thể có hình dung trước cấu trúc của một tác phẩm theo
hướng nhân văn nhưng một nghiên cứu khoa học thường sẽ chia thành các
chương: Giới thiệu (Introduction), Lịch sử vấn đề (Literature review),
Phương pháp luận (Methodology), Kết quả nghiên cứu và bàn luận (Results
and Discussion), và Kết luận (Conclusion). Chúng ta còn có thể hình dung
các đề mục nhỏ trong mỗi chương của báo cáo khoa học. Chương Phương
pháp luận sẽ trình bày đường hướng nghiên cứu, quy trình thiết kế và
triển khai nghiên cứu như chọn mẫu (sampling), thu thập dữ liệu (data
collection), và xử lý dữ liệu (data analysis). Văn phong khoa học phải
rõ ràng và chặt chẽ, còn mức độ cá nhân hay phi cá nhân là tùy lựa chọn
của nhà nghiên cứu.
Người ta thường nhắc tới phương pháp định lượng và định tính, song tôi
chọn nói về phương pháp luận nghiên cứu khoa học theo các nhận thức luận
để tìm tới những giả định về kiến thức nằm trong cách thức triển khai,
trình bày và đánh giá nghiên cứu. Bài viết chỉ mong đem lại những hình
dung sơ lược về nghiên cứu khoa học xã hội và chỉ đề cập những phạm trù
nhận thức luận lớn gắn với phương pháp luận khoa học. Tính tổng quan và
tóm tắt của nó không thể phản ánh hết sự phong phú của những cách con
người nhận thức thế giới.
2.2. Nghiên Cứu Khoa Học theo Thực Chứng Luận
Trong giai đoạn đầu của khoa học xã hội, phương pháp luận khoa học gắn với nhận thức luận thực chứng (positivism)[4].
Nhận thức luận này cho rằng có những chân lý độc lập với ý thức của con
người và nhà nghiên cứu có nhiệm vụ tìm ra những chân lý đó. “Chân lý”
chỉ những quy luật hay những hình mẫu mô tả đúng đắn một hay nhiều phiến
hiện thực xã hội rộng lớn. “Khách quan” nghĩa là tồn tại độc lập với ý
thức của con người. Người nghiên cứu phải thực hiện các thao tác làm
giảm ảnh hưởng của cá nhân mình và sự cá biệt của bối cảnh nghiên cứu.
Một nghiên cứu theo nhận thức luận thực chứng được đánh giá ở tính hiệu
lực (validity) và độ tin cậy (reliability).
Tính hiệu lực chỉ sự đạt được mục đích nghiên cứu, bao gồm việc nghiên
cứu trúng vấn đề đặt ra và đưa ra các kết luận phản ánh chính xác sự vận
động của thế giới khách quan theo một quy trình đúng đắn. Tính nội hiệu
lực chỉ việc kết quả nghiên cứu có được không phải do các yếu tố gây
nhiễu mà là do mối quan hệ giữa các biến số. Tính ngoại hiệu lực
(external validity) hay khả năng khái quát hóa (generalizability) là khả
năng kết quả nghiên cứu trên một mẫu (sample) áp dụng một cách phổ quát
cho cả dân số (population) là các sự vật hiện tượng cùng loại. Khoa học
xã hội theo thực chứng luận có khả năng phỏng đoán. Các chân lý mà nó
kiểm chứng được hoặc không phủ nhận được thì chưa chắc đã luôn luôn
đúng, nhưng có xác suất đúng cao hay là khả năng sai nhỏ.
Độ tin cậy là sự nhất quán của kết quả nghiên cứu nếu nghiên cứu được
thực hiện nhiều lần. Nghiên cứu khoa học được đặc trưng bởi tính có thể
lặp lại (replicability).
Tính nội hiệu lực, khả năng khái quát hóa và sự nhất quán của kết quả
nghiên cứu hướng tới tính “khách quan” của chân lý – tức là tính tồn tại
độc lập với ý thức của con người. Theo thực chứng luận để đạt tới chân
lý khách quan quy trình nghiên cứu cũng như sự trình bày nghiên cứu cũng
cần khách quan. Sự khách quan của quy trình nhằm chỉ tính tường minh và
có thể lặp lại, còn sự khách quan của việc trình bày nghiên cứu chỉ
việc sử dụng ngôn ngữ phi cá nhân và tuân theo các khuôn mẫu được đề ra
bởi giới khoa học hữu quan.
Thực chứng luận thường gắn với các phương pháp nghiên cứu định lượng,
nhưng nghiên cứu định lượng chưa chắc đã theo thực chứng luận cũng như
nghiên cứu định tính có thể được định hình bởi nhận thức luận này.
2.3. Nghiên Cứu Khoa Học theo Kiến Tạo Luận
Khoa học xã hội dần dần dung nạp các nhận thức luận khác nhau- có thể kể
ra: chủ nghĩa kiến tạo (constructivism/constructionism), chủ nghĩa thực
dụng (pragmatism) và lý thuyết phê phán (critical theory). Những nhận
thức luận này không cho rằng chân lý độc lập với ý thức của con người
hoặc không coi đây là mối quan tâm hàng đầu. Nghiên cứu theo các nhận
thức luận này vẫn có thể mang tính khoa học, tức là vẫn hướng tới việc
tái hiện thế giới bằng các chân lý một cách “khách quan,” mặc dù tính
“khách quan” không mang đầy đủ các ý nghĩa của nó như trong thực chứng
luận và các nhà nghiên cứu còn tránh dùng từ “khách quan.”
Kiến tạo luận cho rằng không bao giờ có chân lý độc lập với ý thức của
con người- nhận thức hiện thực bao giờ cũng là kết quả của sự tương tác
giữa con người và hiện thực. Ngay cả khi thực hiện thao tác quy chiếu để
xác định ra một hiện thực chung, ví dụ như “thực hành thơ của nhóm Mở
Miệng,” thì những con người khác nhau đứng trước hiện thực chung ấy vẫn
có những nhận thức khác nhau.
Khi các nhà khoa học vận dụng kiến tạo luận, họ lùi ba bước trong yêu
cầu về tính khách quan. Một là họ không tuyên bố về khả năng khái quát
hóa của kết quả nghiên cứu. Hai là họ không hướng tới tính có thể lặp
lại của nghiên cứu. Ba là họ có thể thừa nhận vai trò của cá nhân nhà
nghiên cứu.
Tuy nhiên, các nhà khoa học vẫn quan tâm tới các tiêu chí tương tự tính
hiệu lực, khả năng khái quát hóa, độ tin cậy và tính khách quan. Họ quan
tâm tới việc kết quả nghiên cứu có ý nghĩa với các trường hợp khác hay
không và dùng tiêu chí khả năng dịch chuyển (transferability) thay cho
khả năng khái quát. Nghiên cứu khoa học theo kiến tạo luận không tự
khẳng định khả năng dịch chuyển của nó mà quan niệm rằng người đọc tham
gia vào việc tạo ra phẩm chất này của nghiên cứu. Nghiên cứu khoa học
dùng quy trình để biện minh cho kết quả nên các nhà khoa học vẫn muốn
quy trình nghiên cứu đi từ đặt vấn đề đến kết quả được thực hiện và
trình bày một cách hệ thống, tường minh- đây có thể coi là một yêu cầu
về tính “khách quan.” Thuật ngữ tương ứng với tính khách quan (của chân
lý- kết quả nghiên cứu) là tính có thể khẳng định (confirmability). Khoa
học theo kiến tạo luận cũng thừa nhận khó có thể hoặc không thể lặp lại
một nghiên cứu: dù một nghiên cứu được lặp lại thì nó vẫn là một nghiên
cứu khác, diễn ra ở một bối cảnh khác. Theo họ, những yếu tố bối cảnh
(bao gồm cá nhân nhà khoa học) cần được xem xét để tác phẩm đạt
“dependability”- có thể dịch là độ tin cậy nhưng mang ý nghĩa khác với
“reliability.” Độ tin cậy của tác phẩm khoa học theo kiến tạo luận là
khả năng nó mô tả và phân tích sự ảnh hưởng các yếu tố bối cảnh lên vấn
đề nghiên cứu. Ngoài ra người ta còn có thể dùng thuật ngữ tính uy tín
(credibility) để thay thế cho tính hiệu lực của nghiên cứu theo trường
phái thực chứng.
Thừa nhận và làm sáng tỏ vai trò cá nhân của người nghiên cứu thậm chí
là một yêu cầu của khoa học theo kiến tạo luận để đảm bảo sự tường minh
của quy trình nghiên cứu- đóng góp những thông tin có giá trị để người
đọc có thể đánh giá tính uy tín, khả năng dịch chuyển, độ tin cậy, tính
có thể khẳng định của một nghiên cứu. Nghiên cứu nhân văn hoàn toàn có
thể theo kiến tạo luận nhưng không ưu tiên mô tả quy trình nghiên cứu
một cách hệ thống, tường minh- tức là không đặt trọng tính “khách quan.”
Người ta không nói tới “phương pháp” nhân văn mà chỉ nói tới “đường
hướng” nhân văn. Nhiều nghiên cứu nhân văn chủ động phản lại phương pháp
luận (anti-methodological). Chúng không giả định rằng cần phải thực
hiện nghiên cứu theo một kế hoạch có thể vạch ra trước và mô tả rõ ràng
với người đọc.
Nghiên cứu khoa học theo kiến tạo luận có thể dung dưỡng văn phong cá
nhân để làm rõ bản chất kiến tạo của chân lý. Tuy nhiên, nhiều nhà khoa
học không chọn văn phong này mà vẫn áp dụng cách tu từ đem lại cảm giác
về sự khách quan của các kết luận. Nghiên cứu khoa học theo kiến tạo
luận cũng chấp nhận cách này vì cho rằng tính kiến tạo đã có thể được
làm sáng tỏ bằng mô tả phương pháp luận. Lựa chọn văn phong phi cá nhân
có thể là do tin cậy vào tính hệ thống, tường minh của quy trình nghiên
cứu. Cũng có thể có nhiều lý do khác: khi xét về thẩm mỹ của ngôn ngữ,
nhà nghiên cứu yêu thích sự phi cá nhân hơn. Tính phi cá nhân của văn
phong có thể khiến nghiên cứu thuyết phục hơn với những người đọc thích
sự khách quan cũng như giảm nhẹ nguy cơ tổn thương cá nhân nhà nghiên
cứu.
Nghiên cứu khoa học theo kiến tạo luận đặt trọng tính phương pháp luận
và vẫn là sự tái hiện thế giới thành chân lý, và vì thế vẫn giữ tính
khoa học của nó. Giới học thuật cũng đưa ra những tiêu chí đánh giá
nghiên cứu khoa học theo kiến tạo luận trùng với những tiêu chí đánh giá
nghiên cứu nhân văn, đấy là giá trị đạo đức và thẩm mỹ. Đạo đức ở đây
không phải chỉ là sự tuân theo các quy chuẩn như ở nghiên cứu khoa học
theo thực chứng luận mà cần hiểu là cách nhà nghiên cứu tự có trách
nhiệm với đời sống con người- tác phẩm họ làm ra có trân trọng phẩm giá
của con người và khơi gợi cái thiện hay không? Nghiên cứu theo kiến tạo
luận có thể đề cao hiệu ứng thẩm mỹ. Chúng ta có thể thấy điều này ở một
số cuốn sách và phim tài liệu hết sức hấp dẫn của ngành nhân chủng học.
Kiến tạo luận, chứ không phải là thực chứng luận, mới đang là xu thế
của nhiều ngành khoa học xã hội.
2.4. Nghiên Cứu Khoa Học theo Thực Dụng Luận và Đường Hướng Phê Phán
Một nghiên cứu khoa học theo chủ nghĩa thực dụng hay đường hướng phê
phán có thể trình diễn các thao tác nghiên cứu gần giống như các nghiên
cứu khoa học theo thực chứng luận và kiến tạo luận. Điều khác biệt là
trong khi thực chứng luận và kiến tạo luận dựa trên những giả định về
bản chất của nhận thức thì thực dụng luận và phê phán luận đề cao mục
đích của nhận thức. Thực dụng luận quan tâm tới mục đích của nghiên cứu
và lấy mục đích đó biện minh cho các quy trình nghiên cứu. Phê phán luận
phân biệt với thực dụng luận ở chỗ nó quan tâm tới các mối quan hệ
quyền lực và hướng tới xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn- trường phái phê
phán quy phạm (normative critical approaches) hoặc làm bất ổn những thứ
đã được xác lập để tạo ra những khả thể khác- trường phái phê phán khiêu
kích (provocative critical approaches). Phương pháp luận nghiên cứu
khoa học có thể phù hợp với phê phán quy phạm nhưng không phù hơp với
phê phán khiêu khích vì khoa học hướng tới sự xác lập. Điển hình nhất
của khoa học mang tính phê phán quy phạm là chủ nghĩa xã hội khoa học
của Marx và Engels (Mác và Ăng-ghen). Công trình nghiên cứu của Marx,
Engels và những người đi theo mang tính khoa học không ở sự tường minh
quy trình nghiên cứu mà ở chỗ giả định về các quy luật phát triển khách
quan của các hình thái xã hội. Tiêu biểu cho trường phái phê phán khiêu
khích là các tác phẩm nhân văn của Foucault, Derrida, Rancière, những
triết gia đang có những ảnh hưởng lớn tới ngành nghiên cứu văn học. Tuy
nhiên có nhiều nhà nghiên cứu tiếp cận các tác giả này với phương pháp
luận khoa học, cũng như có những cách tiếp cận chủ nghĩa Marx với đường
hướng nhân văn.
Vậy là ngay cả khi coi luận văn của Đỗ Thị Thoan là một nghiên cứu khoa học dựa vào dòng chữ ở bìa, có thể thấy người viết bài “Một Luận Văn Mơ Hồ và Sai Lầm”
không ở trong cộng đồng học thuật hiểu rằng khoa học xã hội có trường
phái cho phép thể hiện/khuyến khích góc nhìn và văn phong cá nhân.
2.5. Phê Phán Nghiên Cứu Khoa Học
Diễn ngôn đề cao khoa học thường phân biệt tri thức khoa học với kinh
nghiệm và cho rằng tri thức khoa học có giá trị hơn vì nó đến từ phương
pháp hệ thống, khách quan.
Ngành khoa học (triết học) về logic chỉ ra rằng các ngành khoa học khác
thực chất là dựa trên thói quen. Nghiên cứu khoa học xã hội có thể được
thực hiện với tư duy diễn dịch hay quy nạp. Tuy nhiên, các quy luật khoa
học là sự quy nạp những đặc điểm chung của các cá thể trong một mẫu
lớn. David Hume cho
rằng quy nạp là một sản phẩm của thói quen chứ không phải là logic.
Chúng ta quen với ý tưởng rằng mặt trời mọc vào mỗi buổi sáng, và niềm
tin rằng mặt trời mọc vào buổi sáng dựa trên sự trải nghiệm chứ không
phải là bất cứ quy luật nào giống như tính giao hoán của phép cộng. Khoa
học không có đích là những chân lý mô tả bề mặt kiểu như mặt trời mọc
vào buổi sáng, song phê phán khoa học nói chung không phải là sự phê
phán các kết quả nghiên cứu khoa học cụ thể mà là sự phê phán nhận thức
luận và phương pháp luận khoa học. Sự quy nạp của khoa học không cho
phép bẻ gẫy thói quen, nhưng trong thực tế một người hàng ngày vẫn cho
gà ăn đến một ngày nào đó có thể sẽ vặt cổ nó.
Lịch sử phát triển của khoa học xã hội đã chứng kiến sự bẻ gẫy thói quen
để chuyển sang các trường phái mới, song sự bẻ gẫy thói quen này không
nằm trong logic của các phương pháp luận khoa học đã xác lập. Sự bẻ gẫy
thói quen đề ra các phương pháp luận khoa học mới[5].
Tuy nhiên, ngay cả khi người ta theo các trường phái khoa học mới hơn,
ví dụ như theo kiến tạo luận thay vì thực chứng luận, thì khoa học xã
hội vẫn có xu hướng duy trì trật tự xã hội cũ- nó bám vào quy luật và
minh chứng- mà quy luật thì có tính ổn định và minh chứng là dấu vết của
quá khứ. Khoa học xã hội theo kiến tạo luận tuy không kết luận về quy
luật cho một nhóm các sự vật hiện tượng cùng loại nhưng vẫn hướng tới
tái hiện quy luật/hình mẫu chung của những trường hợp được nghiên cứu và
coi những tái hiện này là có thể khẳng định dựa trên quy trình nghiên
cứu. Con người cũng có thể dùng trí tưởng tượng của mình để đưa ra các
hình mẫu hiện thực mới sau đó dùng phương pháp luận khoa học kể kiểm
chứng hay phủ định hình mẫu đó. Ở trường hợp đó sự xuất hiện của cái mới
cũng không phải là do nhận thức luận và phương pháp luận khoa học.
Phương pháp luận khoa học chỉ là một phương cách để cái mới được công
nhận. Nhận thức luận khoa học và phương pháp luận khoa học xã hội coi
nhẹ vai trò của cơ hội (chance), của cái cá biệt, cản trở tầm nhìn về
những khả thể và hạn chế phạm vi lựa chọn để hành động của con người. Sự
hạn chế này, theo quan điểm của khoa học xã hội, là cần thiết để đạt
được hiệu quả và công năng. Một cách sống theo tư duy khoa học sẽ đặc
trưng bởi tính hướng đích, sự lựa chọn và kiểm soát.
Paul Feyerabend đã
mô tả tiến bộ khoa học như những điều diễn ra một cách vô trật tự và
nhận định rằng sự phát triển của khoa học không dựa trên sự xác lập các
phương pháp nghiên cứu khoa học. Nhưng ông cho rằng nhận định của mình
không phải là sự phê phán khoa học mà là sự phản ánh khoa học: khoa học
thật sự đề cao tính vô trật tự, không có phương pháp và phi lý trí còn
các phương pháp khoa học đã xác lập là những hình ảnh che mờ sự thật
này. Paul Feyerabend đặc biệt chất vấn vai trò của lý tính trong trong
nghiên cứu khoa học. Ông không chống lại khoa học mà chỉ đưa ra một cái
nhìn khác về khoa học. Tuy nhiên Paul Feyerabend bị coi là kẻ thù của
khoa học.
Nghiên cứu khoa học dựa vào quy trình làm việc của nó mà khẳng định giá
trị kết quả làm ra. Nói một cách khác, nó dùng quy trình hệ thống, khách
quan để biện minh cho kết quả. Để phê phán được quy trình nghiên cứu
khoa học, người ta cần có chuyên môn. Người bình thường hưởng thụ kết
quả khoa học và không được coi là có năng lực phê phán khoa học. Sự phân
công lao động này tạo thành người biết và người “buộc phải biết.” Khoa
học như một thứ quyền lực gây sức ép để người ta tiếp nhận một nội dung,
ngay cả khi mình chưa nghĩ gì về nó hoặc không thấy đúng. Chân lý có
nghĩa là không thể/khó có thể chối cãi. Khái niệm chân lý là một khái
niệm đầy quyền lực. Sự tồn tại của nó có giá trị nhưng nguy hiểm vì có
thể bị lạm dụng và đã luôn bị lạm dụng. Những cuộc chiến tranh tàn khốc
nhất trong lịch sử loài người đều được phát động dựa trên tư duy và tu
từ khoa học (dù không phải là dựa trên chân lý được công nhận phổ quát).
Tiêu biểu nhất, Hilter đã góp phần tạo ra thảm họa diệt chủng người Do
Thái với các lý thuyết mang tính khoa học xã hội về chủng tộc. Nhà khoa
học nói riêng hay con người nói chung nhiều lúc dùng tính khách quan để
chối bỏ những trách nhiệm của mình trong khi chân lý được đưa vào cuộc
sống và phát huy tác dụng/tác hại của nó là do họ tự gây dựng lên. Không
phải sự lạm dụng khoa học nào cũng là ngụy khoa học. Nhà khoa học hoàn
toàn có thể định ra một khung tham chiếu và dùng phương pháp khoa học để
định ra là X kém hơn Y một cách “khách quan”, tuy nhiên sự hơn kém đó
được tạo ra bằng chính hành động so sánh mà nhà khoa học thực hiện. Hành
động đó có thể đặt X vào một tình thế bất lợi trong cuộc sống nhưng nhà
khoa học có thể biện minh cho hành động của mình bằng việc đã thực hiện
quy trình nghiên cứu một cách đầy đủ, đúng đắn, bao gồm cả việc hoàn
thành các thủ tục về đạo đức nghiên cứu. Ở đây tôi không phê phán ngụy
khoa học mà phê phán tư duy khoa học ở sự khẳng định quyền lực và vì thế
dễ bị lạm dụng. Tôi cũng không phê phán những thao tác cụ thể của
nghiên cứu khoa học mà chỉ phê phán việc nhận thức luận khoa học tự đặt
để phương pháp và kết quả nghiên cứu của nó vào vị thế quyền lực.
Nghiên cứu nhân văn cũng có khả năng bị lạm dụng hoặc gây áp chế như
nghiên cứu khoa học nhưng có những nhà nghiên cứu hướng tới một sự khiêm
tốn bằng cách không khẳng định sự xác lập chân lý và không dùng đến
tính bảo vệ của sự khách quan. Khi ấy nhà nghiên cứu từ bỏ những đặc
quyền của khoa học. Hãy nói về luận văn của Đỗ Thị Thoan như một tưởng
tượng. Một khẳng định mang tính khách quan như “Nhóm Mở Miệng đã trình
diễn những quan niệm mới mẻ về thi ca” so với một nhận định cũng y hệt
như thế nhưng nhà nghiên cứu tự nhận nó là kết quả của việc cá nhân mình
tham gia vào không gian văn hóa ấy thì cái nào là phát biểu khiêm tốn
hơn? Tác giả đã thừa nhận vai trò của cá nhân mình, và cô lại một lần
nữa khiêm tốn khi không tự giả định rằng như thế là quy trình nghiên cứu
đã hệ thống và tường minh. Giao tiếp bằng ngôn từ của luận văn là một
thứ giao tiếp giữa người và người không hướng đến sự khẳng định quyền
lực của nghiên cứu. Đây cũng là lý do khiến tôi xếp luận văn thạc sỹ của
Đỗ Thị Thoan vào nghiên cứu nhân văn. Không phải nghiên cứu nhân văn
nào cũng như thế nhưng thái độ nhà nghiên cứu thể hiện không khớp với
nhận thức luận và phương pháp luận khoa học. Tôi quý mến sự tự ý thức
của Đỗ Thị Thoan bởi tôi đã đọc không ít công trình nghiên cứu hầu như
không có tính khoa học nhưng vẫn tuyên bố về tính khoa học. Những công
trình ấy không theo các phép tắc của khoa học và khẳng định tính “khoa
học” chỉ bằng một giọng văn phi cá nhân hướng tới sự “khách quan.” Chúng
là sự thiếu ý thức, sự chạy theo mốt hay sự làm giả khoa học. Còn luận
văn của Đỗ Thị Thoan là một nghiên cứu học thuật theo đường hướng nhân
văn.
3. Sơ Lược về Nghiên Cứu Nhân Văn
Từ “khoa học” đã gắn với tính “khách quan”- dùng nó để chỉ tất cả các
hoạt động học thuật cản trở các đường hướng nghiên cứu đề cao cảm quan
trí tuệ của cá nhân, hướng tới các giá trị đạo đức và thẩm mỹ hơn là sự
xác lập chân lý. Tôi đang nói về một vấn đề đáng quan tâm chứ không đưa
ra các chuẩn mực về sự đúng sai khi sử dụng từ ngữ. Tuy nhiên phân biệt
khoa học xã hội và nhân văn không phải là đề xuất của riêng tôi mà là
một vấn đề trong lịch sử phát triển các ngành học thuật xã hội. Ở một số
cộng đồng sự phân biệt này là quá rõ, ai cũng hiểu nên ít khi nói tới. Ở
những cộng đồng khác, người ta không quan tâm nhiều đến những đường
hướng khác với cách thức mình đang thực hiện. Và tại một số không gian,
sự phân biệt này đang là vấn đề để trao đổi.
Có nhiều cách nghĩ về khoa học khác nhau, nên cũng có những cách nghĩ về
nhân văn khác nhau. Tựu trung, nhân văn dùng để chỉ những đường hướng
nghiên cứu không theo nhận thức luận và phương pháp luận khoa học (mà
phần 2 của bài viết này đã bàn tới). Phần viết nhỏ này cố gắng mô tả các
đặc điểm của nghiên cứu nhân văn, song việc làm đó chỉ để hình dung về
các cách tiếp cận khác với khoa học hơn là xác lập ra một (những) hình
mẫu về nghiên cứu nhân văn.
Nghiên cứu hướng nhân văn không mang tính công thức, người nghiên cứu
làm việc với sự nhạy cảm trí tuệ của mình trước vấn đề nghiên cứu và
hướng tới hiệu quả giao tiếp, giá trị đạo đức và thẩm mỹ. Nếu như khoa
học đề cao lý tính thì nhân văn không cho rằng lý tính và cảm tính tách
rời nhau hoặc cần phải tách rời nhau.
Khi học thạc sỹ, tôi từng nghe luận án tiến sỹ có thể là một bài thơ.
Chương trình tiến sỹ tôi đang theo học có một môn gọi là Poetic Inquiry
(nghiên cứu mang tính thơ) được thiết kế bởi một nhà thơ. Khóa học này
không loại trừ phương pháp khoa học khi làm việc với thơ nhưng cũng mở
ra một khả thể: kết quả nghiên cứu học thuật là một bài thơ. Đó có lẽ là
một trong những nỗ lực đề cao tính thi ca của ngôn ngữ. Nghiên cứu nhân
văn một cách truyền thống không đi xa như vậy, nhưng nó vẫn được đặc
trưng bởi tính viết văn: quá trình nghiên cứu không tách rời với quá
trình biểu đạt và nội dung nghiên cứu không tách rời với ngôn ngữ chở
nó.
Các tác phẩm học thuật nhân văn mang tính thi ca thường có hình thức là
“văn xuôi”, nhưng là thứ văn xuôi giàu chất thơ. Nhiều nhà phê bình đã
dùng từ “poetry” (thi ca) để nói về tác phẩm của Nietzsche, Foucault,
Derrida và Rancière. Các thuật ngữ của Foucault có những ý nghĩa khác
nhau trong từng bối cảnh sử dụng chứ không nhất quán như cách người ta
vẫn hình dung về sử dụng thuật ngữ trong học thuật. Cuốn GLAS của
Derrida cho thấy sự chơi đùa với các yếu tố thị giác của con chữ và
trang giấy- nó là một tác phẩm typography. Nhiều tác phẩm học thuật theo
hướng nhân văn không hề thực hiện thao tác trích dẫn và không trình bày
lịch sử vấn đề. Cuốn Hướng Tới Một Triết Học về Nhiếp Ảnh của Flusser
có dòng ghi: “Cuốn sách này nỗ lực làm tăng mối nghi ngờ đó và để giữ
phẩm chất giả thiết, tránh trích dẫn từ các công trình trước về cùng chủ
đề. Cũng vì lý do tương tự, không có danh mục tham khảo” (xem tr. 7,
tại đây).
Các tác phẩm nhân văn kể chuyện cá nhân và đưa ra kiến giải cá nhân dựa
trên một số khái niệm học thuật nhiều không kể xiết. Bạn đọc có thể tìm
thấy một loạt các bài báo học thuật như vậy ở số kỉ niệm 50 năm thành
lập của một trong những tạp chí hàng đầu ngành triết học trong giáo dục
Studies in Philosophy and Education (có thể đọc ở đây một ví dụ).
Nghiên cứu nhân văn khác với thơ, truyện, hay các tiểu luận không mang
tính học thuật ở chỗ nào? Không phải ở tính khoa học mà là ở tính học
thuật.
4. Tính Học Thuật của Nghiên Cứu
Tôi hiểu học thuật như một môi trường tại đó con người học tập một cách
chuyên tâm và chuyên nghiệp. Một người học chuyên nghiệp có trách nhiệm
hệ thống hóa, kiểm chứng và phủ định những chân lý, giá trị đã xác lập
cũng như khám phá, sáng tạo những chân lý, giá trị mới. Không phải cứ là
học giả mới làm được những điều này, nhưng với học giả thì đó là trách
nhiệm. Tính học thuật không phải là một tập hợp các tính từ chỉ đặc
điểm. Học thuật là một lĩnh vực quá rộng lớn, nên việc quy cho nó một số
tính chất sẽ làm cho không gian học thuật bị bó hẹp. Một tác phẩm thành
công về mặt học thuật nghĩa là nó đạt được sự công nhận của chuyên gia
trong ngành hay một hội đồng/cộng đồng học thuật cụ thể. Điều này đúng
với cả nghiên cứu khoa học lẫn nghiên cứu nhân văn. Tuy nhiên, khi đánh
giá một công trình khoa học, các hội đồng/cộng đồng khoa học dựa trên
tính khoa học- là một tập hợp các đặc điểm đã xác lập. Phương pháp luận
khoa học thường là yếu tố được quan tâm trước tiên. Về nguyên tắc phương
pháp luận khoa học là những hình mẫu đã xác lập và người ta dễ thống
nhất về nó, nhưng trên thực tế thành viên của một hội đồng khoa học vẫn
có thể bất đồng ý kiến. Nghiên cứu nhân văn được đặc trưng bởi tính viết
văn và dựa trên cảm quan trí tuệ cá nhân. Từng hội đồng/cộng đồng học
thuật sẽ có cách làm việc riêng. Một hội đồng/cộng đồng này có thể đưa
ra những phép tắc rất chặt chẽ và cứng nhắc; một hội đồng/cộng đồng khác
có thể khuyến khích tự do biểu đạt và phá cách. Trong cùng một hội
đồng/cộng đồng tiếp nhận nghiên cứu nhân văn cũng có những ý kiến trái
chiều. Giáo sư hướng dẫn của tôi nói rằng tôi có thể sáng tác một bài
haiku ba dòng và bài thơ đó có thể được chấp nhận là một luận án tiến sỹ
nếu như mọi người trong hội đồng học thuật chấp nhận như vậy. Với diễn
đạt ấy, cô đã nhấn mạnh rằng ý kiến của một hội đồng học thuật ở Khoa
được tôn trọng gần như tuyệt đối. Tôi không nghĩ những giáo sư trong hội
đồng học thuật của tôi sẽ chấp nhận một bài haiku như một luận án tiến
sỹ. Họ có những thói quen khó thay đổi, và bản thân tôi cũng có tham
vọng khác cho tác phẩm của mình. Không có sức ép gì về mặt quy chế thì
không có nghĩa là người ta sẽ hành xử một cách dễ dãi. Môi trường học
thuật hiện tại của tôi tôn trọng sự làm việc với nhau giữa những con
người có phẩm giá và trình độ hơn là những quy chuẩn buộc phải theo.
Bài viết này của tôi có thể tương đương với một bài thơ chia sẻ nỗi đau
về một “trạng huống nhân sinh”: Tôi muốn nhân văn, không muốn khoa học,
xin đừng dùng khoa học đánh đập nhau! Song tôi không nghĩ một bài thơ sẽ
có giá trị giao tiếp với những người quan tâm tới việc sử dụng thuật
ngữ “khoa học.” Tôi đã tìm đến – tạo ra một bài viết dày đặc thuật ngữ.
Khi hướng tới một đối tượng cụ thể, tôi tự thấy mình cần dựa trên hệ
thống thuật ngữ của các học giả và các sự kiện trong một số ngành học
thuật. Chính là tôi đã lựa chọn tính học thuật cho bài viết của mình.
Tính học thuật đặt trong bối cảnh nghiên cứu nhân văn khác nhau theo
từng hoàn cảnh giao tiếp. Ở lớp học về triết của giáo sư hướng dẫn mình
tôi đã nộp những bài thơ như bài tập cuối khóa; còn ở một lớp học khác,
cũng về triết, do một giáo sư khác phụ trách, tôi đã nộp một tiểu luận
với lối diễn đạt quy củ, rõ nghĩa.
Như cách tôi hình dung về tính học thuật của một nghiên cứu nhân văn thì
luận văn thạc sỹ của Đỗ Thị Thoan thành công về mặt học thuật ở chỗ nó
được một hội đồng học thuật gồm các giáo sư, tiến sỹ có uy tín trong
ngành đánh giá với số điểm tối đa. Việc Ban Lý Luận Phê Bình báo Văn
Nghệ mang một luận văn thạc sỹ ra một cộng đồng người không biết đến
luận văn mà phân tích và đánh giá tính “khoa học” của nó với một thái độ
khinh miệt thiết nghĩ là một việc làm gây tổn thương cho môi trường học
thuật. Ban Lý Luận Phê Bình báo Văn Nghệ giải thích rằng có một bài
viết như thế để đề phòng trường hợp người ta nhắc tới luận văn như một
“huyền thoại”, giống như cách Đỗ Thị Thoan đã “hoang tưởng hiếu đại” về
nhóm Mở Miệng, coi nhóm Mở Miệng như một “huyền thoại.” Ban Lý Luận Phê
Bình cho rằng từ “huyền thoại” mà Đỗ Thị Thoan dùng để nói về Mở Miệng
có một ý nghĩa ngợi ca. Điều này một lần nữa cho thấy người viết bài báo
đó không ở trong cộng đồng học thuật phù hợp để đánh giá luận văn, bởi
từ “huyền thoại” theo nghĩa học thuật của nó có thể không có nghĩa tán
dương sự tốt đẹp, cao cả hay tính “thần thánh”. “Huyền thoại” (myth) có
thể chỉ là một câu chuyện đã trở thành một đơn vị ngôn ngữ, nghĩa là nó
được lưu truyền và được gán cho một số ý nghĩa văn hóa nhất định. Ban Lý
Luận Phê Bình nhận định rằng Đỗ Thị Thoan không giải thích rõ nghĩa một
số thuật ngữ, song yêu cầu giải nghĩa luôn có thể là bất tận và nhà
nghiên cứu cần lựa chọn giải nghĩa một số ít trong những thuật ngữ mình
sử dụng. Những thành viên của một hội đồng học thuật được giả định là đủ
kiến thức nền tảng để hiểu hầu hết các thuật ngữ trong tác phẩm.
Bài báo “Một Luận Văn Mơ Hồ và Sai Lầm”
chỉ là một ví dụ. Trong khi tôi trân trọng những bài viết bàn về cách
ứng xử với một hội đồng học thuật thì tôi hoang mang, thậm chí là bàng
hoàng, trước các phát biểu về đường hướng nghiên cứu của luận văn, ngay
cả từ phía những người bảo vệ nó. Với tôi, cách tiếp cận vấn đề nghiên
cứu và hệ thống thuật ngữ mà luận văn “Vị Trí Của Kẻ Bên Lề: Thực Hành
Thơ Của Nhóm Mở Miệng Từ Góc Nhìn Văn Hóa” sử dụng thực sự đòi hỏi những
ai muốn đánh giá nó một cách học thuật phải có kiến thức chuyên ngành
hẹp. Chỉ xét riêng cái tên của luận văn thôi đã thấy nó chứa những từ
ngữ tưởng như là bình thường nhưng thực ra là những thuật ngữ rất khó,
như “lề”, “thực hành thơ”, “góc nhìn văn hóa.” Những người không hiểu
các từ ngữ này như những thuật ngữ mà họ không biết đã quát lên những
nhận xét mà tôi cho rằng hết sức khiếm nhã và xin phép không trích ra ở
đây. Những hiểu lầm đáng tiếc xảy ra khiến tôi không thể không nghĩ về
sự bất cẩn hay những khó khăn trong việc đọc hiểu và phát biểu về một
tác phẩm học thuật. Rất tiếc là không một ai trong hội đồng chấm luận
văn lên tiếng với công chúng.
Vấn đề đặt ra là người “bên ngoài” có thể can thiệp như thế nào vào một
tác phẩm học thuật? Lê Tuấn Huy viết: “Cần nói thêm, Luận văn Thạc sỹ
của Đỗ Thị Thoan không phải là văn học mà là nghiên cứu khoa học về văn
học (dẫu là văn học bên lề), nên không phải là đối tượng cho những người
phê bình theo kiểu đọc văn, đọc thơ rồi khen chê về văn phong, hình
tượng, giá trị tư tưởng của tác phẩm” (ghi chú ii).
Tôi nghĩ ai cũng có thể có cảm nhận riêng của mình về bất cứ một điều
gì, nhưng cũng cần dành thời gian tương xứng cho nó và giữ cho mình đức
khiêm tốn. Tôi không có ý rằng cần phải có một hội đồng học thuật có
chuyên môn hẹp mới có thể nhìn ra giá trị của một tác phẩm học thuật.
Tính học thuật cũng không phải là tất cả giá trị của một tác phẩm học
thuật. Song tính học thuật của một luận văn thạc sỹ thực sự là tính phụ
thuộc vào một hội đồng học thuật trong lĩnh vực nghiên cứu hẹp. Một luận
văn thạc sỹ như của Đỗ Thị Thoan được viết ra cho chính bản thân tác
giả, hội đồng đánh giá nó (được thành lập trước hay sau thì vẫn cần lựa
chọn các thành viên phù hợp) và một số nhỏ những người cùng mối quan
tâm. Nó không phải là một tác phẩm tuyên truyền cho đại chúng.
Tôi không cho rằng chỉ có những cộng đồng nhỏ hẹp có chuyên môn mới được
bàn luận về một tác phẩm học thuật, song khi nó trở thành đối tượng
được bàn tới trong những cộng đồng lớn hơn thì các tương tác xung quanh
một tác phẩm học thuật có thể mang những ý nghĩa khác. Một tác phẩm dù
ít người biết rõ như thế nào mà vẫn bàn luận sôi nổi thì thực chất nó
đang là một công cụ cho những “trò chơi quyền lực”. Cụm từ trong ngoặc
kép này không sẵn nghĩa xấu. Tôi không suy đoán về động cơ của những
người khác, nhưng xin thừa nhận với tôi cách người ta đối xử với luận
văn ấy là cái cớ để tôi nêu ra vấn đề phân biệt nghiên cứu khoa học và
nghiên cứu nhân văn, tính học thuật của một nghiên cứu. Đó là cách mà
tôi, như một người nằm ngoài hội đồng đánh giá luận văn, tham gia vào
diễn ngôn. Cá nhân tôi đang ở trong một hoàn cảnh học thuật phải quan
tâm tới những vấn đề đó.
5. Lời Kết
Giống như nghiên cứu khoa học, nghiên cứu nhân văn có những tác phẩm dở
tệ bên cạnh những tác phẩm xuất sắc. Điều tôi muốn nói là trong giới học
thuật có ít nhất hai cách làm việc khác nhau: nhận thức luận khoa học
với sự xác lập các tiêu chí khách quan để đánh giá tác phẩm và nhận thức
luận nhân văn với sự trao niềm tin vào con người. Tôi không trao đổi để
tìm ra cách làm việc nào là tốt hơn.
Nghiên cứu khoa học và nghiên cứu nhân văn có thể là những thứ đối chọi
nhau. Nhưng ở một góc nhìn khác, chúng có thể không tách biệt. Tôi không
ủng hộ việc phân chia các ranh giới rõ ràng, nhưng tôi phân biệt hai
cách làm việc với hi vọng cơi nới thêm không gian học thuật, trước hết
là cho bản thân mình. Với tôi, nhìn nghiên cứu học thuật bằng lăng kính
của khoa học sẽ loại trừ nhiều tác phẩm nhân văn khỏi phạm vi học thuật
trong khi đó lăng kính của nhân văn lại có thể nhìn khoa học như một bài
thơ. Tôi biết một người bạn làm khoa học tự nhiên với công việc hàng
ngày là đếm vi khuẩn ecoli, và bạn ấy coi công việc của mình là nghệ
thuật- nghĩa là bạn ấy gắn nó với những niềm vui, với các giá trị đạo
đức và thẩm mỹ bên cạnh việc xác lập một chân lý nào đó về loài vi
khuẩn.
Tôi cũng xin nhắc lại hay nói thêm về một số điều tôi không làm. Lựa
chọn của tôi là không trích dẫn những nội dung trong bài viết theo quy
chuẩn nào. Tôi không giả định rằng những điều mình viết là chân lý. Tôi
không cho rằng mình đang tranh đấu cho “lẽ phải” để hướng tới một xã
hội, một nền học thuật tốt đẹp hơn (theo đường hướng phê phán quy phạm).
Tôi cũng không cố tình trình bày các thông số mang tính khoa học xã hội
về bản thân như tuổi tác, trình độ văn hóa và chuyên ngành học thuật.
Bài viết để lộ ra những thông tin cá nhân nhưng chúng gắn liền với những
nội dung tôi muốn sẻ chia chứ không phải là những thông tin đưa vào để
người đọc, theo tư duy khoa học xã hội, dự đoán tính uy tín hay giá trị
của bài viết. Giả dụ có một hội đồng học thuật nào đó đánh giá bài viết
này là vô giá trị, cá nhân bạn có tin điều đó? Bạn đọc chính là người
trong “cộng đồng học thuật” mà tôi hướng tới, tuy tôi không thể chọn
người đọc nhưng người đọc chọn tôi.
Bài viết của tôi nhắc tới luận văn thạc sỹ “Vị Trí Của Kẻ Bên Lề: Thực
Hành Thơ Của Nhóm Mở Miệng Từ Góc Nhìn Văn Hóa”. Tôi không phân tích và
đánh giá nó kĩ càng bởi tôi vẫn muốn công việc ấy được để dành cho những
người trong hội đồng chấm luận văn. Phần lớn chúng ta cũng không tiếp
cận được toàn văn tác phẩm, nhưng tôi là người có cái duyên được gặp gỡ
cả tác phẩm và tác giả nên cũng xin được bày tỏ sự trân trọng dành cho
tác phẩm này.
[1] Theo
trao đổi với những người bạn hiểu biết về từ nguyên học, “khoa học” vốn
là từ mượn tiếng Nhật (có thể xem bài viết về từ Hán Việt gốc Nhật của
Trần Đình Sử tại đây).
Người Nhật dịch “science” thành “kagaku” (khoa học), người Trung Quốc
mượn lại của người Nhật, rồi người Việt đọc tân thư đầu thế kỷ 20. Từ
“khoa học” cũng từng được phong kiến Trung Quốc dùng với nghĩa “học vấn
thi cử.” Trong bài viết này, tôi xin không bàn về lịch sử phát triển của
học thuật Á Đông.
[2] Tùy
thuộc vào góc nhìn mà nhánh triết học nghiên cứu logic có được coi là
khoa học hay không. Có quan điểm cho rằng triết học không phải là khoa
học vì khoa học phải là nghiên cứu thực nghiệm (empirical studies) dựa
trên các dữ liệu thực nghiệm (empirical data) nhưng bài viết này không
khung khổ khái niệm “khoa học” theo quan điểm đó. Khái niệm “dữ liệu
thực nghiệm” hiện nay có nhiều nghĩa khác nhau, cần đến một công trình
triết học riêng biệt để bàn về nó, nên ở phần trình bày về nghiên cứu
khoa học tiếp theo tôi cũng không chọn cách nói về khoa học mà phải xử
lý khái niệm này.
[3] Nhân
văn khác với nghệ thuật như thế nào? Có nhiều đáp án khác nhau và không
loại trừ nhau vì chúng phản ánh những góc nhìn khác nhau. Đáp án A:
không phân biệt. Các trường đại học của Mỹ thường dùng từ “nghệ thuật”
(arts) để nói về nhân văn (humanities). Nhiều trường đại học tổng hợp có
hai trường thành viên là College of Social Science (Đại Học Khoa Học Xã
Hội) và College of Art (Đại Học Nghệ Thuật), với các khoa như triết
học, lịch sử, văn học và nghệ thuật. Đáp án B: có sự phân biệt dựa trên
phương tiện làm việc- nhân văn làm việc với ngôn từ còn nghệ thuật làm
việc với các phương tiện vật chất khác. Đáp án C: có sự phân biệt dựa
trên tính sáng tác-trình diễn hay học thuật. Các ngành nghệ thuật thiên
về sáng tác-trình diễn còn các ngành nhân văn thiên về học thuật. Cách
phân biệt này cũng chỉ là tương đối vì tính sáng tác-trình diễn và tính
học thuật không tách biệt nhau- hoặc chỉ tách biệt nhau theo nhận thức
luận khoa học. Trong bài viết này tôi chọn từ “nhân văn” (mà không làm
việc với từ “nghệ thuật”) và nói tới nghiên cứu học thuật theo truyền
thống đang dựa trên ngôn từ và chưa được coi như là các sáng tác nghệ
thuật nhưng đang chứng kiến nhiều nỗ lực cởi bỏ những hạn chế này.
[4] Góc
nhìn thực chứng phản ánh tinh thần Khai Sáng (Enlightenment), thời đại
tự xưng của lý trí (reason), bắt đầu ở Anh vào thế kỷ 17 và nở rộ ở Pháp
vào thế kỷ 18. August Comte được
coi là người truyền bá thực chứng luận gắn với phương pháp nghiên cứu
khoa học xã hội, song thực chứng luận của Comte chỉ là một trong nhiều
trường phái thực chứng luận khác nhau.
[5] Tính
mới ở đây được hiểu là chưa được công nhận rộng rãi, còn các cách nhận
thức khác nhau của con người có thể tồn tại cùng nhau và có từ những xã
hội xa xưa chứ không phải là sáng tạo của riêng những danh nhân ở xã hội
hiện đại.
Nhã Thuyên
1.
Tôi thấy cần thiết công bố những biên bản liên quan tới việc bảo vệ
luận văn của tôi năm 2010. Hiện tại, tôi rất tiếc vì chưa tìm lại được
biên bản nhận xét của một trong hai phản biện là T.S Chu Văn Sơn, bản
nhận xét của chủ tịch Hội đồng PGS Nguyễn Văn Long. Tất cả các bản nhận
xét đó, theo thủ tục, đều được đọc công khai trước hội đồng bảo vệ và
sau đó đính kèm với luận văn khi nộp lưu trữ cho thư viện khoa và
trường.
Tôi đính kèm đây các ảnh chụp những văn bản tôi còn giữ lại được ở thời
điểm này gồm: quyết định về việc thành lập Hội đồng chấm luận văn, Nhận
xét của người hướng dẫn cô Nguyễn Thị Bình và nhận xét của Uỷ viên hội
đồng Nguyễn Đăng Điệp, nhận xét phản biện của T.S Ngô Văn Giá.
2. Sự công bố này liên quan tới việc Trường Đại học Sư phạm Hà Nội cần
minh bạch cho bản thân tôi, tác giả luận văn, về thông tin thành lập hội
đồng thẩm định luận văn năm 2014 (quyết định thành lập hội đồng này) và
các biên bản nhận xét của các thành viên hội đồng thẩm định đó.
3. Tôi hi vọng các thành viên trong hội đồng chấm luận văn cũ sẽ có đơn
kiến nghị chính thức lên trường Đại học sư phạm Hà Nội về tính hợp pháp
cũng như sự công khai đối thoại của hội đồng thẩm định luận văn với hội
đồng cũ. Ở đây, tôi không đặt vấn đề hội đồng cũ phải bảo vệ kết quả
luận văn mà tôi đã trình bày thành công trước hội đồng năm 2010. Tôi
hình dung rằng, đơn kiến nghị này (nếu có) là một minh chứng rằng luận
văn là văn bản có thực, tác giả luận văn, người hướng dẫn, người phản
biện, các thành viên hội đồng là những con người có thực, việc bảo vệ
luận văn là sự kiện có thực và dựa trên giả định rằng cái có thực đó
không thể bị xoá trắng.
Bản nhận xét của T.S Nguyễn Đăng Điệp, uỷ viên hội đồng:
Nguy_n Đăng Đi_p – nh_n xét lu_n văn
Bản nhận xét của T.S Ngô Văn Giá, người phản biện.
phanbienluanvanNT_VanGia
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)